Án lệ mới về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tặng cho đất

Chia sẻ tin này:

Tranh chấp có liên quan đến hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo khoản 3 Điều 25 BLTTDS 2004, khoản 3 Điều 26 BLTTDS 2015.

TAND Tối cao vừa ban hành Án lệ 49/2021/AL về xác định quyết định hành chính ban hành không đúng thẩm quyền.

Án lệ được xây dựng dựa trên Quyết định giám đốc thẩm số 06/2019/HC-GĐT ngày 2-4-2019 của Hôi đồng thẩm phán TAND Tối cao về vụ án “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” giữa người khởi kiện là ông Thái Văn N với người bị kiện là chủ tịch UBND tỉnh Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nhà thờ V.

Tranh chấp đất nhà thờ tặng cho

Năm 1976, Nhà thờ V cho ông N cất nhà ở trên đất của nhà thờ. Ông N được giao trông coi nhà thờ.

Nhà thờ được xây dựng với với diện tích chiều ngang 16 m, dài từ Quốc lộ 80 đến sông P (khoảng 30 m). Ông N cất nhà ở trên phần đất ngang 5 m; phần đất chiều ngang còn lại, ông N trồng chuối và xoài.

Đến năm 1986, gia đình ông N xây thêm hai phòng ở và một nhà bếp giáp với nhà chính. Năm 1999, đất nhà thờ bị sạt lở nên nhà thờ di dời sang phần đất đối diện (bên kia Quốc lộ 80). Phần đất cũ của nhà thờ được giao một phần cho ông Nguyễn Phước T và giao một phần cho vợ chồng bà M, ông K để đổi lấy vật tư xây dựng nhà thờ. Gia đình ông N vẫn tiếp tục sử dụng phần diện tích đất ở nêu trên.

Ngày 18-1-2003, Linh mục quản nhiệm Nguyễn Quang D cùng đại diện Ban Quới chức Họ đạo Nhà thờ V lập “Tờ giao đất” giao cho ông N sử dụng phần đất chiều ngang 10 m, chiều dài từ Quốc lộ 80 đến sông P 30 m, tổng diện tích là 300 m2.

Năm 2009, ông N sửa chữa nhà chính kiên cố và cất thêm cửa hàng mua bán điện thoại di động nhưng nhà thờ không đồng ý nên xảy ra tranh chấp.

Ông N cho rằng ông đã được cho đất theo “Tờ giao đất”. Theo Trích đo bản đồ địa chính do Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện P ngày 1-9-2011 thì nhà chính của ông N có diện tích 134,7 m2 (ngang 5,8 m), cửa hàng điện thoại di động 102,2 m2 (ngang 4,4 m).

Nhà thờ đã có đơn đến UBND tỉnh Đ đề nghị giải quyết. Ngày 14-5-2012, chủ tịch UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định 197/QĐ-UBND-NĐ giải quyết tranh chấp đất đai, với nội dung buộc ông N di dời vật kiến trúc, cây trồng để giao trả lại phần đất tranh chấp cho nhà thờ sử dụng.

Quan điểm giải quyết, UBND tỉnh Đ cho rằng năm 2003, linh mục Nhà thờ V có làm “Tờ giao đất” cho ông N nhưng chưa được chính quyền địa phương chứng thực nên không có giá trị pháp lý.

Khởi kiện quyết định của chủ tịch tỉnh

Ngày 24-9-2012, ông N khởi kiện ra TAND tỉnh Đ. đề nghị hủy Quyết định 197/QĐ-UBND-NĐ của chủ tịch UBND tỉnh Đ.

Bản án hành chính sơ thẩm ngày 27-6-2014, TAND tỉnh Đ bác yêu cầu của ông N nên ông kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm.

Ngày 11-7-2014, viện trưởng VKSND tỉnh Đ kháng nghị, đề nghị tòa án cấp phúc thẩm xử theo hướng sửa án sơ thẩm, hủy một phần Quyết định 197/QĐ-UBND-NĐ chủ tịch UBND tỉnh Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP.HCM rút toàn bộ quyết định kháng nghị của iện trưởng VKSND tỉnh Đ.

Bản án hành chính phúc thẩm số 65/2015/HC-PT của TAND Cấp cao tại TP.HCM đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị ngày 11-7-2014 của viện trưởng VKSND tỉnh Đ; đồng thời, không chấp nhận kháng cáo và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N về việc hủy quyết định của chủ tịch UBND tỉnh Đ.

Ông N đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thẩm của TAND Cấp cao tại TP.HCM.

Ngày 9-11-2018, chánh án TAND Tối cao kháng nghị, đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án hành chính phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Đ giải quyết sơ thẩm lại.

Nội dung Án lệ

Ông N cho rằng ông đã được Linh mục quản nhiệm cùng đại diện Ban Quới chức họ đạo Nhà thờ V cho đất theo “Tờ giao đất”’ lập ngày 18-1-2003.

Đại diện Nhà thờ V thừa nhận có “Tờ giao đất” như ông N trình bày, nhưng cho rằng ông N không thực hiện việc trao đổi vật tư để xây dựng Nhà thờ mới nên Nhà thờ không ra UBND xã xác nhận giấy giao đất cho ông N.

Do tranh chấp giữa hai bên có liên quan đến hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa Nhà thờ V với ông N nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo khoản 3 Điều 25 BLTTDS 2004, khoản 3 Điều 26 BLTTDS 2015. Chủ tịch UBND tỉnh Đ giải quyết tranh chấp đất giữa Nhà thờ V với ông N là không đúng thẩm quyền.

Trúc Phương (PLO)

Chia sẻ tin này:

Các tin liên quan

Để lại một bình luận